Điều ít biết về tổ tiên của loài mèo, tổ tiên của loài mèo

Chó là một họ động vật có vú chuyên ăn thịt và ăn tạp được gọi chung là chó, sói hay cáo... còn mèo thì lại là một họ riêng trong 9 họ ăn thịt, nhưng khám phá khảo cổ học gần đây đã cho thấy 55 triệu năm trước, chó và mèo có chung một tổ tiên.

Bạn đang xem: Tổ tiên của loài mèo


Chó và mèo ngày nay được xem như những người bạn sống cùng với con người, theo vẻ ngoài cũng như tính cách của chúng, một số người sẽ thích nuôi chó còn một số người thì lại lựa chọn mèo để làm bạn. Nhưng dù có khác nhau về cả tính cách lẫn ngoại hình thì giới khảo cổ học mới đây đã phát hiện ra rằng 55 triệu năm trước, chúng cùng có chung một tổ tiên.



Dormaal là một ngôi làng nhỏ nằm ở giữa nước Bỉ và dường như khu vực này rất xa lạ với hầu hết mọi người. Nhưng nếu là một "tín đồ" của bia Bỉ thì chắc hẳn sẽ có người biết tới đây vì ngôi làng này là nơi sản xuất ra loại bia Hof Ten Dormaal Blond nổi tiếng.

Ngoài việc sản xuất bia thì Dormaal còn được giới khảo cổ biết đến như một khu vực có rất nhiều hóa thạch cổ sinh vật vô cùng nổi tiếng với rất nhiều loài sinh vật thuộc Thế Eocen được tìm thấy ở đây.

Dựa trên hai mẫu hóa thạch xương hàm được phát hiện ở đây vào những năm 1960, những nhà cổ sinh vật học tin rằng chúng thuộc về một loài mèo tiền sử cỡ nhỏ - Miacis Latour, thường được tìm thấy ở khu vực Bắc Mỹ.



Hình ảnh phục hồi của loài mèo tiền sử - Miacis Latour.


Sau đó, một nhóm nghiên cứu do nhà cổ sinh vật học Floreal Sole đến từ Học viện Khoa học Tự nhiên Hoàng gia ở Brussels dẫn đầu đã tiến hành một cuộc khai quật tại ngôi làng này và phát hiện ra rất nhiều mẫu hóa thạch khác nhau.

Qua phântích những mẫu hóa thạch ban đầu, nhóm nghiên cứu xác định được chúng đến từ ít nhất 40 loài động vật có vú tiền sử, trong đó có 280 mẫu hóa thạch thuộc về cùng một loài vẫn chưa được xác định. Từ những mẫu răng hàm được khai quật, các nhà cổ sinh vật học cho rằng rất có thể chúng thuộc về một loài mèo cổ cỡ nhỏ.




Những mẫu hóa thạch mới được phát hiện của loài này bao gồm răng, hàm và mắt cá chân. Từ hình thái xương răng của, các nhà cổ sinh học xác định chúng là một loài hoàn toàn mới và có những đặc tính vô cùng độc đáo.

Năm 2014, Sole và nhóm nghiên cứu của mình đã đưa ra một nghiên cứu có tên "Dental and tarsal anatomy of "Miacis" latouri and a phylogenetic analysis of the earliest carnivoraforms (Mammalia, Carnivoramorpha)", trong bài nghiên cứu này, họ đã đặt tên cho loài động vật mới này là Dormaalocyon. Trong đó Dormaal là tên khu vực tìm ra mẫu hóa thạch còn ocyon trong tiếng Hy Lạp cổ là "Kyon" có nghĩa là con chó.



Qua phân tích những mẫu hóa thạch tìm kiếm được, các nhà cổ sinh vật học xác định Dormaalocyon là một loài động vật ăn thịt có kích thước nhỏ với tổng chiều dài cơ thể chỉ khoảng 1 mét và nặng 1kg.

Đánh giá từ những hình ảnh được mô phỏng có thể thấy Dormaalocyon là một loài động vật có ngoại hình trộn lẫn giữa chó, chồn và sóc, trên thực tế có thể thấy chúng có vẻ ngoài gần như tương tự loài Fossa (Cryptoprocta Ferox) sống ở Madagascar ngày nay.


Fossa là một loài thú ăn thịt, hình dạng giống mèo. Đây là loài đặc hữu tại Madagascar, thuộc họ Eupleridae, bộ Ăn thịt, có họ hàng gần với họ Cầy mangut.


Phân loại sinh học loài này đã gây tranh cãi do đặc điểm cơ thể tương đồng với những loài mèo, song đặc điểm khác chỉ ra mối quan hệ gần với họ Cầy.


Dormaalocyon sở hữu một cái đầu nhỏ, mõm nhọn với đôi mắt to và đôi tai hình tam giác. Chúng có cái cổ dài, thân hình khá linh hoạt và cái đuôi dài để giúp chúng cân bằng cơ thể khi trên cây.

Chúng sở hữu 4 chi to khỏe và đầy cơ bắp với năm ngón chân mỗi bàn và móng vuốt cong. Đánh giá từ cấu trúc tổng thể của loài động vật này, các nhà cổ sinh học xác định nó là một loài động vật sống trên cây rất giỏi leo trèo.

Ngoài ra họ cũng xác định đây là một loài dị hình giới tính (Sexual dimorphism), con đực có kích thước lớn và to khỏe hơn rất nhiều so với con cái.

Việc phát hiện ra loài Dormaalocyon có ý nghĩa rất lớn. Phân tích sinh học cho thấy đây là loài thú ăn thịt (Carnivoramorpha) lâu đời nhất từng được con người phát hiện. Hình thức ăn thịt là một nhánh lớn của lớp thú, và bao gồm Carnivora và Miacoidea đã tuyệt chủng (một siêu họ dị thường đã được chia thành hai họ ăn thịt: Miacidae và Viverravidae. Miacoids là loài ăn thịt nguyên thủy sống trong thời đại Paleocene và Eocene, khoảng 66-33 triệu năm trước).

Phần lớn các động vật có vú ăn thịt trên Trái Đất ngày nay thuộc về họ Carnivora, bao gồm các họ như chó, mèo, gấu, chồn... Vì vậy, có thể nói mèo và chó từng có chung một tổ tiên là Dormaalocyon.


Dormaalocyon sống ở Châu Âu vào đầu Thế Eocene 55 triệu năm trước. Vào thời điểm đó, nhiệt độ của Trái Đất cao hơn ngày nay và Châu Âu có những khu rừng mưa dày đặc và ẩm ướt. Những con Dormaalocyon thường trèo cây qua khu rừng mưa để săn đuổi những động vật có vú và côn trùng nhỏ hơn.

Xem thêm: Top 4 Đề Kiểm Tra 15 Phút Lý 10 Chương 1 5 Phút Vật Lý 10 Chương 1

Tuy Dormaalocyon có kích thước khá khiêm tốn nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự tiến hóa của các loài động vật có vú ngày nay trên Trái Đất. Do các vật liệu hóa thạch hạn chế, trước đây chúng ta luôn "mơ màng" về sự tiến hóa của động vật có vú trong Thế Paleocene. Việc phát hiện ra Dormaalocyon chứng tỏ rằng trong thời kỳ cực kỳ ấm áp của Thế Paleocene/Eocene, các loài ăn thịt đã xuất hiện với sự đa dạng từ Châu Âu đến Bắc Mỹ, phát triển thành những loài mèo nhỏ cổ xưa và những con thú ăn thịt gần như cáo.

Các nghiên cứu về các loài linh trưởng cũng chỉ ra rằng ở Thế Paleocene, Châu Âu có khả năng là trung tâm tiến hóa của động vật có vú sớm.

Vào thời cổ đại, diện mạo của mèo nhà không có nhiều khác biệt với mèo rừng châu Phi. Theo hoạt động di cư và sự phát triển của tuyến đường thương mại cổ xưa, những con mèo này được đưa đến khắp các vùng đất.


Sinh sống ở khu vực Trung Đông và châu Phi, mèo rừng châu Phi (Felis lybica) là một loài mèo hoang dã được coi là tổ tiên của các giống mèo nhà ngày nay. Ảnh: Wikipedia.Theo các nhà nghiên cứu, một số cá thể mèo rừng châu Phi đã được thuần hóa vào khoảng 10.000 trước ở vùng Trung Đông. Hài cốt của những con mèo nhà đầu tiên được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ có niên đại 9.500 năm ở đảo Síp. Ảnh: Destination Uganda Travelers.Vào thời cổ đại, diện mạo của mèo nhà không có nhiều khác biệt với mèo rừng châu Phi. Theo hoạt động di cư và sự phát triển của tuyến đường thương mại cổ xưa, những con mèo này được đưa đến khắp các vùng đất, theo thời gian phân hóa thành nhiều giống mèo khác nhau. Ảnh: Wiktionary.Ngày nay, mèo rừng châu Phi có thể được tìm thấy ở nhiều loại môi trường sống khác nhau trong khu vực phân bố của chúng, như thảo nguyên, xavan, vùng cây bụi rậm, thậm chí là vùng ngoại ô của các đô thị. Ảnh: i
Naturalist.Chúng có kích cỡ tương đương mèo nhà, với chiều dài đầu và thân từ 45–75 cm, chiều dài đuôi chừng 20–38 cm và cân nặng dao động trong khoảng 3-6,5 kg. Ảnh: Wikipedia.Mèo rừng châu Phi có bộ lông màu nâu hoặc vàng xám với những vằn đen rõ nét trên chân và đuôi, thân có sọc nhạt, có khi đứt quãng như đốm. Trông chúng khá giống mới mèo mướp nhà. Ảnh: Dr. Bio
Blogo.Vào ban ngày, mèo rừng châu Phi thường ẩn nấp và nghỉ ngơi trong các bụi rậm. Chúng chủ yếu hoạt động vào lúc hoàng hôn và đêm tối. Ảnh: Africa Geographic.Thức ăn chủ yếu của mèo rừng châu Phi là chuột và các loài thú nhỏ khác. Các loài chim, bò sát, lưỡng cư và côn trùng cũng có thể là nạn nhân của chúng. Ảnh: Ann van Dyk Cheetah Centre.Mèo rừng tiếp cận con mồi một cách từ tốn, và tấn công ngay khi con mồi nằm trong tầm bắt của nó. Dù không còn sống trong môi trường hoang dã, những con mèo nhà vẫn duy trì tập tính săn mồi này của tổ tiên. Ảnh: Africa Geographic.Thời gian mang thai của mèo rừng cái kéo dài từ 56 đến 60 ngày. Chúng chủ yếu sinh từ một đến ba chú mèo con vào mùa mưa và ấp áp. Đôi khi mèo mẹ sinh tới năm chú mèo con. Ảnh: i
Naturalist.Mèo con mở mắt sau khoảng 10–14 ngày và có thể di chuyển khi được một tháng tuổi. Khi được khoảng ba tháng tuổi, chúng bắt đầu học các kỹ thuật săn mồi từ mẹ. Chúng tự lập khi được khoảng sáu tháng tuổi. Ảnh: Africa Geographic.Có ba phân loài mèo rừng châu Phi là mèo rừng châu Phi chính thức (Felis lybica lybica) - phân bố phía Bắc châu Phi, mèo rừng Nam Phi (Felis lybica cafra) - phân bố ở phía Nam và Mèo rừng châu Á (Felis lybica ornata) - phân bố ở Trung Đông. Ảnh: Nick Dean / Flickr.Trong tự nhiên, mèo rừng châu Phi có phạm phân vi phân bố rộng và số lượng còn nhiều. Trong Sách Đỏ IUCN, chúng được xếp vào diện Ít quan tâm. Ảnh: Christian Jakimowitsch.Mối đe dọa nghiêm trọng với loài mèo hoang dã này là hiện tượng ô nhiễm di truyền khi lai tạp với mèo nhà, dẫn đến suy thoái nguồn gen nguyên bản. Ảnh: Reddid.Mời quý độc giả xem video: Ý nghĩa những phong tục ngày Tết Việt | VTC1.


*

Sinh sống ở khu vực Trung Đông và châu Phi, mèo rừng châu Phi (Felis lybica) là một loài mèo hoang dã được coi là tổ tiên của các giống mèo nhà ngày nay. Ảnh: Wikipedia.
*

Theo các nhà nghiên cứu, một số cá thể mèo rừng châu Phi đã được thuần hóa vào khoảng 10.000 trước ở vùng Trung Đông. Hài cốt của những con mèo nhà đầu tiên được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ có niên đại 9.500 năm ở đảo Síp. Ảnh: Destination Uganda Travelers.
*

Vào thời cổ đại, diện mạo của mèo nhà không có nhiều khác biệt với mèo rừng châu Phi. Theo hoạt động di cư và sự phát triển của tuyến đường thương mại cổ xưa, những con mèo này được đưa đến khắp các vùng đất, theo thời gian phân hóa thành nhiều giống mèo khác nhau. Ảnh: Wiktionary.
*

Ngày nay, mèo rừng châu Phi có thể được tìm thấy ở nhiều loại môi trường sống khác nhau trong khu vực phân bố của chúng, như thảo nguyên, xavan, vùng cây bụi rậm, thậm chí là vùng ngoại ô của các đô thị. Ảnh: i
Naturalist.
*

Chúng có kích cỡ tương đương mèo nhà, với chiều dài đầu và thân từ 45–75 cm, chiều dài đuôi chừng 20–38 cm và cân nặng dao động trong khoảng 3-6,5 kg. Ảnh: Wikipedia.
Mèo rừng châu Phi có bộ lông màu nâu hoặc vàng xám với những vằn đen rõ nét trên chân và đuôi, thân có sọc nhạt, có khi đứt quãng như đốm. Trông chúng khá giống mới mèo mướp nhà. Ảnh: Dr. Bio
Blogo.
Vào ban ngày, mèo rừng châu Phi thường ẩn nấp và nghỉ ngơi trong các bụi rậm. Chúng chủ yếu hoạt động vào lúc hoàng hôn và đêm tối. Ảnh: Africa Geographic.
Thức ăn chủ yếu của mèo rừng châu Phi là chuột và các loài thú nhỏ khác. Các loài chim, bò sát, lưỡng cư và côn trùng cũng có thể là nạn nhân của chúng. Ảnh: Ann van Dyk Cheetah Centre.
Mèo rừng tiếp cận con mồi một cách từ tốn, và tấn công ngay khi con mồi nằm trong tầm bắt của nó. Dù không còn sống trong môi trường hoang dã, những con mèo nhà vẫn duy trì tập tính săn mồi này của tổ tiên. Ảnh: Africa Geographic.
Thời gian mang thai của mèo rừng cái kéo dài từ 56 đến 60 ngày. Chúng chủ yếu sinh từ một đến ba chú mèo con vào mùa mưa và ấp áp. Đôi khi mèo mẹ sinh tới năm chú mèo con. Ảnh: i
Naturalist.
Mèo con mở mắt sau khoảng 10–14 ngày và có thể di chuyển khi được một tháng tuổi. Khi được khoảng ba tháng tuổi, chúng bắt đầu học các kỹ thuật săn mồi từ mẹ. Chúng tự lập khi được khoảng sáu tháng tuổi. Ảnh: Africa Geographic.
Có ba phân loài mèo rừng châu Phi là mèo rừng châu Phi chính thức (Felis lybica lybica) - phân bố phía Bắc châu Phi, mèo rừng Nam Phi (Felis lybica cafra) - phân bố ở phía Nam và Mèo rừng châu Á (Felis lybica ornata) - phân bố ở Trung Đông. Ảnh: Nick Dean / Flickr.
Trong tự nhiên, mèo rừng châu Phi có phạm phân vi phân bố rộng và số lượng còn nhiều. Trong Sách Đỏ IUCN, chúng được xếp vào diện Ít quan tâm. Ảnh: Christian Jakimowitsch.
Mối đe dọa nghiêm trọng với loài mèo hoang dã này là hiện tượng ô nhiễm di truyền khi lai tạp với mèo nhà, dẫn đến suy thoái nguồn gen nguyên bản. Ảnh: Reddid.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.