Thể loại: tiểu thuyết về chiến tranh của nguyễn một, top 10 cuốn sách hay về chiến tranh việt nam

Biên dịch:Phan Thiên Lý| Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng

Năm 1967, Le Ly Hayslip, khi đó mang tên Phùng Thị Lệ Lý, còn là một thiếu nữ sinh sống và làm việc tại Đà Nẵng. Là một cô gái nông thôn đã sống sót qua chiến tranh và nạn cưỡng hiếp ở làng quê của mình, bà chuyển tới Đà Nẵng để trốn chạy sự áp bức của cả phía Cộng sản lẫn phía người Việt chống Cộng. Năm 1972, bà kết hôn với một người Mỹ và chuyển tới Hoa Kỳ, và năm 1989 bà xuất bản cuốn tự truyện chấn động về tình trạng bị mắc kẹt giữa hai phía, When Heaven and Earth Changed Places (“Khi đất trời đảo lộn”). Tới năm 2017, đây có lẽ vẫn là cuốn tự sự ngôi thứ nhất duy nhất bằng tiếng Anh về trải nghiệm của những người dân quê Việt Nam mắc kẹt giữa hai chiến tuyến trong Chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc đời và tác phẩm của mình, bà Hayslip là hiện thân cho định nghĩa rộng của tôi về ý nghĩa của việc là người Việt Nam, một bản sắc bao trùm cả những người Việt ở Việt Nam lẫn ở hải ngoại, cũng như cả những người viết bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, mà trong trường hợp này là tiếng Anh.

Bạn đang xem: Tiểu thuyết về chiến tranh

Tôi tình cờ đọc cuốn sách của bà hồi còn là sinh viên trường Berkeley đầu những năm 1990. Cuốn sách khiến tôi vô cùng xúc động, không chỉ bởi đây là một cuốn hồi ký đầy lôi cuốn, mà còn bởi nó là một trong số ít sách của tác giả người Việt viết bằng tiếng Anh. (Bà viết cuốn sách cùng với Jay Wurts.) Khi tìm kiếm lịch sử của chính mình, một người Việt tị nạn được đưa tới Mỹ bởi một cuộc chiến của Mỹ ngay tại quê hương mình, tôi không tìm thấy nhiều thông tin bằng tiếng Anh, dù là bản gốc hay bản dịch. Số lượng tràn ngập các tác phẩm ở Mỹ về cuộc chiến ấy đều là do người Mỹ viết, và không ngạc nhiên khi chúng đều viết về người Mỹ.

Có một vài ngoại lệ. Trần Văn Dĩnh là một cựu viên chức ngoại giao của miền Nam, Việt Nam Cộng hòa, người ở lại Mỹ và viết hai cuốn tiểu thuyết về Chiến tranh Việt Nam, No Passenger on the River (“Sông không lữ khách,” 1965) và Blue Dragon, White Tiger (“Lam long, bạch hổ,” 1983). Là một đứa trẻ biết nhận thức sớm và đọc mọi thứ có thể về cuộc chiến, tôi gặp cuốn thứ hai trong thư viện cộng đồng ở quê nhà San Jose, California, và cảm thấy bối rối trước sự dị thường của cuốn sách. Từ khi đó tôi đã biết thật hiếm mà tìm thấy được các cây bút Việt Nam ở Hoa Kỳ nói về cuộc chiến này, hay nghe thấy tiếng nói của người Việt trong dòng chính ở Mỹ.

Đắm chìm trong các câu chuyện, cảm xúc, và ký ức của cộng đồng tị nạn người Việt nơi tôi lớn lên, tôi đã quyết tâm kể lại một vài câu chuyện, bởi tôi biết người Mỹ nhìn chung biết rất ít về những câu chuyện này. Chỉ có một nhóm nhỏ người Mỹ tin rằng việc hiểu thêm về tiếng nói và trải nghiệm của người Việt là cần thiết và cấp bách, mà nếu không có chúng thì người Mỹ sẽ không bao giờ có hiểu biết trọn vẹn về Chiến tranh Việt Nam. Sự thiếu hiểu biết của người Mỹ về lịch sử, văn hóa, và chính trị Việt Nam đã góp phần kéo nước Mỹ vào một cuộc chiến và một đất nước mà họ không hiểu. Sự thiếu hiểu biết này có lẽ còn tiếp diễn đến ngày hôm nay, xét cả về những điều người Mỹ tiếp tục thờ ơ về Việt Nam và những điều người Mỹ từ chối tìm hiểu về Trung Đông. Văn chương đóng vai trò quan trọng như một cách sửa chữa sự thiếu hiểu biết này.

Nghĩ lại về Trần Văn Dĩnh, tôi tự hỏi ông có cô đơn không khi là tiểu thuyết gia người Việt duy nhất ở Mỹ vào thời của ông. Ngày nay chúng ta không thiếu người Mỹ gốc Việt viết bằng tiếng Anh, cũng như các bản dịch tiếng Anh của văn chương tiếng Việt. Nhưng nhận thức về sự tồn tại của nền văn chương này vẫn còn hạn chế. Đối với phần lớn người Mỹ và thế giới, “Việt Nam” có nghĩa là “Chiến tranh Việt Nam,” và Chiến tranh Việt Nam có nghĩa là chiến tranh của Mỹ, với những cuốn tiểu thuyết của đàn ông Mỹ viết về lính Mỹ. Mặc dù trải nghiệm của họ cũng quan trọng, họ khó mà đại diện được cho Chiến tranh Việt Nam, chứ chưa nói đến Việt Nam.

Như nhà văn Lê Thị Diễm Thúy và nhiều người khác đã nhắc đi nhắc lại, Việt Nam là một đất nước, chứ không phải là một cuộc chiến. Chỉ cần đọc tập truyện ngắn Tướng về hưu của nhà văn bậc thầy Nguyễn Huy Thiệp là hiểu được điều này. Các truyện ngắn của ông đã hé lộ những điều phức tạp trong cuộc sống thời hậu chiến ở một đất nước Việt Nam vỡ mộng, vốn đang đấu tranh để tái thiết chính mình và điều hòa giữa một bên là những thói đạo đức giả và thất bại của người Việt Nam cũng như nhà nước Việt Nam, với một bên là những lời ca ngợi thời chiến hào hùng của Đảng Cộng sản. Đồng thời, chiến tranh cũng định hình nên một thế hệ, và những hệ quả của nó lại định hình thế hệ tiếp theo, như bà Thúy đã thể hiện trong cuốn The Gangster We are All Looking For (“Gã du đãng mà chúng ta đều đang tìm kiếm”).

Cuốn tiểu thuyết trữ tình này kể về câu chuyện của một cô gái trẻ tị nạn ở San Diego, người có gia đình phải chịu nỗi ám ảnh bởi chấn thương tâm lý của người cha từng đi lính và cái chết của người anh trai, vốn bị lạc trong chuyến đi tị nạn. Giống như đa số tác phẩm văn chương của người Việt và người Mỹ gốc Việt viết về cuộc chiến, tiểu thuyết của bà cho thấy chiến tranh tác động đến nhiều người hơn chứ không chỉ những người lính hay những người đàn ông. Chiến tranh Việt Nam đã không được chú ý nhiều ở khía cạnh số lượng dân thường bị sát hại nhiều hơn binh lính, và ở khía cạnh hàng triệu người dân bị biến thành người tị nạn mà trải nghiệm của họ còn đau thương hơn nhiều so với trải nghiệm của nhiều lính Mỹ chưa bao giờ thực sự thấy cảnh chiến trường. Văn chương của người Mỹ gốc Việt buộc độc giả phải thừa nhận rằng định nghĩa hẹp về chiến tranh chỉ phác họa người lính là thiếu chính xác.

Hết lần này đến lần khác, văn chương của người Mỹ gốc Việt cho thấy tác động tổn thương tâm lý của chiến tranh lên dân thường và người tị nạn (như cuốn tiểu thuyết thể loại noir về băng đảng của Vu Tran, Dragonfish (“Cá rồng”); hay tập truyện We Should Never Meet (“Chúng ta không nên gặp nhau”) của Aimee Phan, viết về những đứa trẻ mồ côi người Việt và con lai Mỹ Á; hay cuốn The Lotus and the Storm (“Hoa sen và bão tố”) của Lan Cao, kết nối giữa Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Iraq; hay cuốn Where the Ashes Are (“Ở nơi tro tàn”) của Nguyen Qui Duc, viết về việc người cha của chính tác giả, một quan chức của chính quyền Nam Việt Nam, bị bỏ tù); sự tái định hình đầy tàn khốc của chiến tranh lên cuộc sống người Việt thời hậu chiến (như hồi ký của Andrew X. Pham về chuyến đạp xe xuyên Việt, Catfish and Mandala (“Cá da trơn và Mạn đà la”); hay tác phẩm châm biếm thô ráp về nạn tham nhũng kinh tế ở Sài Gòn của Linh Dinh, Love Like Hate (“Yêu như ghét”); hay cuốn She Weeps Each Time You’re Born (“Bà khóc mỗi lần bạn sinh ra”) của Quan Barry, viết về tài năng đáng chú ý của một nhà ngoại cảm cảm nhận được nỗi đau của những người sống sót); sự hiện diện ám ảnh của cuộc chiến trong thế hệ thứ hai của những người tha hương (như cuốn hồi ký bằng tranh đầy mạnh mẽ của Thi Bu
I, The Best We Could Do (“Điều tốt nhất chúng ta làm được”); hay cuốn tiểu thuyết Grass Roof, Tin Roof (“Mái cỏ, mái tôn”) của Dao Strom, viết về một người phụ nữ Việt Nam kết hôn với một người Mỹ và ảnh hưởng của cuộc hôn nhân lên những đứa con của họ; hay cuốn hồi ký của Bich Minh Nguyen về việc lớn lên ở vùng Midwest, Stealing Buddha’s Dinner (“Trộm đồ cúng Phật”); hay cuốn Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora (“Những giấc mơ hương: Chiêm niệm về người Việt tha hương”) của Andrew Lam); hay dấu hiệu của cuộc chiến trong quá khứ người Việt (như cuốn The Book of Salt (“Sách muối”) của Monique Truong, viết về đầu bếp người Việt của Gertrude Stein và cuộc gặp của anh ta với Hồ Chí Minh; hay cuốn The Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family (“Cây liễu thiêng: Bốn thế hệ trong cuộc sống của một gia đình Việt”) của Duong Van Mai Elliott).

Danh sách vẫn còn dài. Văn chương của người Việt và người Mỹ gốc Việt đang ở ngoài kia chờ đón bất cứ ai biết sử dụng Google. Thế nhưng rất nhiều người ở Mỹ và các nước khác thà không muốn biết đến, hay khi một tác giả người Việt mới được xuất bản, họ sẽ nói “Cuối cùng cũng có một tiếng nói cho người Việt Nam!” Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói, vì người Việt thì rất ồn ào. Chỉ là tiếng nói của họ thường không được lắng nghe bởi những người không hiểu người Việt, hay những người chỉ muốn nghĩ đến người Mỹ khi nghe thấy từ “Việt Nam,” hay những người chỉ dành chỗ cho một cuốn sách duy nhất của người Việt trong đề cương khóa học mà họ dạy, như một thực tế trong vô cùng nhiều lớp đại học về Chiến tranh Việt Nam, cho dù cuốn sách đó có đáng đọc như cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Cuốn sách này không chỉ là một tác phẩm kinh điển về chiến tranh của Bắc Việt – nó còn là cuốn tiểu thuyết kinh điển về chiến tranh của bất cứ thời đại nào và ở bất cứ đâu.

Về phần Đảng Cộng sản Việt Nam, họ cũng thà không nghe thấy những tiếng nói nhất định. Ngay cả Bảo Ninh giờ cũng bị bắt im lặng, cũng giống như người đồng hương của ông, Dương Thu Hương, một cựu thanh niên xung phong miền Bắc vỡ mộng bị lưu đày vì những tiểu thuyết chống Cộng gây lo ngại thời hậu chiến, những cuốn như Tiểu thuyết vô đềNhững thiên đường mù. Về phần những tiếng nói người Mỹ gốc Việt, dù đôi khi chúng tôi vẫn được lắng nghe ở đây – và rồi thường bị quên lãng – chúng tôi hiếm khi được lắng nghe ở Việt Nam. Chúng tôi là những kẻ thua cuộc, những kẻ phản bội, những kẻ bất đồng chính kiến, hay chỉ đơn giản là những kẻ ngoài cuộc thấy được cái hư không đằng sau một đảng ca ngợi chủ nghĩa cộng sản trong khi đang điều hành đất nước như một chế độ độc tài tư bản chủ nghĩa.

Giống như Le Ly Hayslip, chúng tôi bị mắc kẹt giữa hai bên, Việt Nam và Mỹ, tiếng Việt và tiếng Anh, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Một tình cảnh khó khăn như vậy lại có ích cho các nhà văn. Sự bất an khiến chúng tôi viết ra những câu chuyện của mình, lặp đi lặp lại, với hy vọng có thể thay đổi những điều mà người ta vẫn nghĩ đến khi nghe thấy hai chữ “Việt Nam.”

Viet Thanh Nguyen là tác giả của cuốn Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War và gần đây nhất là tập truyện ngắn mang tên The Refugees.

Khi thế giới nín thở dõi theo diễn tiến của cuộc chiến tranh, thì cũng là khi sách phản chiến trở lại.

Xem thêm: Kem ốc sên one today trị mụn ngừa thâm hiệu quả sau 6 ngày dùng


*
Đoạt giải Magnesia Litera – giải thưởng văn chương danh giá nhất của Séc năm 2007, Tiền từ Hitler là một nỗ lực làm dày thêm việc khắc họa những tổn thương tinh thần thời kì hậu chiến.Trải qua những sự hành hạ đến độ gần như mất đi mạng sống, 60 năm sau khi đã là một bà lão, Gita quay lại Puklice với mục đích duy nhất là giành lại công lý cho gia đình mình, khi giờ đây đã được Tòa án giải trừ hết mọi oan sai. Thế nhưng hậu duệ của những người từng hành hạ bà lại một lần nữa chối từ.

Được viết bằng một bút lực vô cùng mạnh mẽ với các hình tượng nặng nề không được gọt giũa, tác giả Radka Denemarková một cách tài tình đã bổ sung vào trong văn chương nỗi đau của những thương tổn tâm lý thời kì hậu chiến mà nhiều tác phẩm đương thời chưa đề cập đến.


Pachinko - Min Jin Lee

Là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất năm 2017, Pachinko hướng vào thời kì Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc, chuẩn bị khơi mào Đệ nhị Thế chiến.

Trải qua 80 năm và 4 thế hệ gia đình, nhà văn Min Jin Lee đã xây dựng được tình thế mong manh của người di cư, khi số mệnh họ cũng như trò pachinko hoàn toàn may rủi, không thấy bến bờ.

*
Pachinko một cách toàn diện đã khơi gợi được số phận của những con người bị bứt khỏi nguồn cội, để rồi chơ vơ, lạc lõng với sự mất kết nối cũng như như tình thế chông chênh trong một tương lai không có gì đảm bảo.Nằm trong danh sách đọc yêu thích của cựu tổng thống Barack Obama, cũng như vào đến chung khảo giải thưởng Sách Quốc Gia Mỹ; cuối tháng 3 này bản chuyển thể của Pachinko sẽ được ra mắt, với sự góp mặt của nam tài tử Lee Min-ho cũng như nữ diễn viên gạo cội Youn Yuh-jung sau thành công lớn ở Minari.


Trái tim mù lòa – Julia Franck

Là một trong số ít tác phẩm khắc họa được hình tượng phụ nữ giữa hai cuộc Đại chiến Thế giới, Trái tim mù lòa của Julia Franck là một “nghiên cứu” sâu rộng vào những vấn đề mà phụ nữ thập niên 30, 40, 50 đã phải hứng chịu, với sự kìm nén giáo dục, tính nam độc hại… cũng như vai trò làm vợ, làm mẹ; đặt trong chiếc lồng “bí ẩn nữ tính”.

*
Đoạt giải sách Đức 2007, tác phẩm này là nét chấm phá vô cùng đặc biệt vào bức tranh chung của chiến tranh, nơi phụ nữ dường như chìm hẳn và không có nhiều vị trí vững chắc từ trước đến nay
Kể về Helene và đi suốt thời gian trưởng thành của cô, Trái tim mù lòa là câu chuyện của những người phụ nữ khác nhau, có người suy tàn về việc mất đi từng thành viên một trong gia đình mình trong chiến tranh; thế nhưng cũng có người mục ruỗng vì sự phù hoa của một xã hội rộng mở đón chờ tiến bộ.


Người đến từ Mariupol – Natascha Wodin

Được viết dựa trên những sự kiện có thật trong gia đình nhà văn người Đức gốc Ukraine – Natascha Wodin, Người đến từ Mariupol không chỉ mang đến giá trị văn chương, mà còn là chứng nhân cho một thế hệ người Ukraine bị cưỡng bức lao động trong thời Đệ nhị Thế chiến.

*
Người đến từ Mariupol tuy tập trung vào một nhánh nhỏ nạn nhân, nhưng là cần thiết để lịch sử không lãng quên họ, những người vô tội bị giày xéo bởi chiến tranh mù lòa.Bám theo cuộc đời mẹ mình, bà Jevgina; Natascha Wodin đi suốt gần 4 thế hệ của cây gia phả dòng tộc, để cho thấy bối cảnh lịch sử đã tàn phá họ ra sao với sự cưỡng ép phi nhân tính, sự tham tàn quyền lực cũng như những mất mát điên loạn buổi đầu chiến tranh.


Thế giới những ngày qua – Stefan Zweig

Là tác phẩm tự truyện trước khi nhà văn người Áo Stefan Zweig – bậc thầy trong việc nắm bắt tâm lý nhân vật của tiểu thuyết thế kỷ XX, tự sát cùng vợ ở Brazil vào năm 1942, vì một thời đoạn đảo điên không thể thấy tương lai phía trước, khi Đệ nhị Thế chiến đang đến gần.

*
Thế giới những ngày qua là trang viết ghi lại những cảm xúc của Zweig, nhưng cũng đồng thời là một khảo cứu thú vị về lớp tri thức năng động trong một đế chế có phần già cỗi những năm đầu thế kỷ XX.Sinh thời là một nhà văn cũng đồng thời là một nhà nhân văn, Zweig nhạy cảm trước thời cuộc, và những đau đớn mà một dân tộc với truyền thống nghệ thuật lâu đời như đế quốc Áo – Hung phải gánh chịu.

Những trang sách của ông thấm đẫm niềm tự hào của những nghệ sĩ lớn, của nền nghệ thuật lớn mạnh; nhưng cũng không thiếu sự chán chường dành cho thời cuộc trước mắt.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.